Tổng công ty Tư vấn Thiết kế GTVT (TEDI), tiền thân là Viện Thiết kế giao thông được thành lập từ tháng 12/1962. Tròn nửa thế kỉ “Đi trước mở đường”, cán bộ, kỹ sư, công nhân TEDI, đã đóng góp nhiều công sức trong việc kiến thiết nên hệ thống CSHT GTVT của đất nước, từ chỗ đi lại khó khăn, hạ tầng cơ sở yếu kém, lạc hậu đến nay đã hình thành mạng lưới giao thông mạch lạc, tương đối hoàn chỉnh, ngày càng nhiều các công trình hiện đại phục vụ CNH – HĐH đất nước.
Nửa thế kỉ đầy tự hào
Ngày 27/12/1962, Viện Thiết kế GTVT được thành lập với 3 chức năng: sản xuất, tham mưu và nghiên cứu KHKT. Trụ sở Viện đặt tại 278 Hàng Bột, Hà Nội (nay là 278 Tôn Đức Thắng).
Những năm 1962 – 1965, trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, thiếu thốn về nhân lực, thiết bị, Viện đã KSTK nhiều công trình kịp phục vụ thi công cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và cho những kế hoạch tiếp theo. Nhiều tiến bộ kỹ thuật do Viện nghiên cứu đã được ứng dụng vào các đồ án như chống sụt trượt trên QL6, thiết kế dầm BTCTDƯL đầu tiên ở cầu Phủ Lỗ và cầu Cửa Tiền, áp dụng lần đầu phương pháp xây triền không cần đê vây, móng triền đá dăm được gia cố bằng cát ở xưởng đóng tàu 1 Hải Phòng, thiết kế trụ cầu Hàm Rồng bằng cột ống bê tông cốt thép đường kính l,55m…
Những năm 1965-1975, đặc biệt thông qua việc KSTK các CTGT do nước bạn XHCN giúp đỡ, Viện đã đổi mới một bước trang thiết bị khảo sát, khoan thăm dò, nâng cao trình độ, tích luỹ kinh nghiệm KSTK, với nhiều đề xuất có giá trị đã được ứng dụng. Viện đã đưa những thiết bị thông tin tín hiệu đường sắt hiện đại vào đồ án thiết kế, dùng tà vẹt bê tông thay tà vẹt gỗ, thiết kế và chỉ đạo thi công hàng chục hầm đường sắt (có hầm dài trên 1km), cầu đường sắt vượt thung lũng trên đường cong và dốc ở tuyến Hà Nội – Lạng Sơn. Về đường bộ, Viện áp dụng mặt đường bê tông nhựa, mặt đường bê tông xi măng (được xây dựng ở phía trước Lăng Hồ Chủ tịch). Về cầu, đã sử dụng gối cao su và dầm cắt khúc ghép bằng keo êpôxi và cốt thép ứng suất trước trong cầu ô tô, áp dụng các kiểu móng giếng chìm. Về đường thủy, Viện Thiết kế các công trình chỉnh trị trên một số sông ở Bắc bộ, dùng cọc có mũi mở rộng ở cảng Hải Phòng.
Thời kỳ 1975-1987, Viện đã KSTK nhiều công trình, lập nhiều luận chứng kinh tế kỹ thuật trên phạm vị toàn quốc để trình Nhà nước quyết định chủ trương xây dựng và vốn đầu tư. Ngoài ra, Viện đã cử nhiều đơn vị sang KSTK cho nước Lào và Campuchia. Trong khi nghiên cứu thiết kế các công trình trên, nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được ứng dụng như các phương án thiết kế hợp lý khắc phục điều kiện vật tư, thiết bị hạn chế trên đường sắt Thống nhất, phương án dầm dàn thép tổ hợp thanh hàn, liên kết bu lông cường độ cao ở cầu Thăng Long, cầu Chương Dương…
Một đặc điểm quan trọng của thời kỳ 1987-1995 là vốn đầu tư cho ngành GTVT ngày một tăng, nhiều dự án giao thông do nước ngoài tài trợ được ký kết. Viện Thiết kế (sau là Công ty) đã mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế và cử nhiều lượt cán bộ tham gia vào các dự án, qua đó học tập nâng cao trình độ, tiếp cận với cách làm ăn mới theo thông lệ quốc tế.
Trong thời kỳ này, nhiều ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới đã được thực hiện như thiết kế dầm Super T lần đầu tiên áp dụng tại cầu Mỹ Thuận, dầm BTCT dự ứng lực liên tục đúc hẫng khẩu độ lớn ở cầu Phú Lương và cầu Sông Gianh, móng mặt đường bê tông nhựa sử dụng cấp phối đá dăm liên tục theo tiêu chuẩn AASHTO bắt đầu từ đường Bắc Thăng Long – Nội Bài… Có thể nói đây là thời kỳ có bước nhảy vọt về tổ chức, đổi mới công nghệ, trang thiết bị, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao đời sống CNVC.
Thời kỳ 1996 – 2007, Viện chuyển sang hoạt động theo mô hình Tổng Công ty. Hầu hết các dự án xây dựng lớn của ngành GTVT trong thời kỳ này đều có sự đóng góp của TEDI. Về đường bộ, có các dự án nâng cấp cải tạo QL1A, QL5, QL6, QL10, QL18, QL9, QL14B, đường Láng – Hòa Lạc, đường Hồ Chí Minh… Về cầu lớn có các công trình tiêu biểu như cầu Phú Lương, cầu Sông Gianh, cầu Quán Hầu, cầu Mỹ Thuận, cầu Đắkrông, nút Nam Chương Dương, cầu Hoàng Long (sông Mã), cầu Phù Đổng (sông Đuống), cầu Tân Đệ, cầu Tạ Khoa, cầu Kiền, cầu Bính, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy, hầm Hải Vân, hầm Đèo Ngang… Về cảng biển có cảng Cái Lân, Dung Quất, Vũng Áng, Thị Vải – Vũng Tàu..
Từ 2007 cho đến nay, TEDI đã tham gia khảo sát thiết kế hầu hết các dự án lớn của ngành GTVT. Về đường bộ có các dự án đường cao tốc Giẽ – Ninh Bình, TP.Hồ Chí Minh -Trung Lương, Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Thái Nguyên, Đại lộ Thăng Long, đường Vành đai 3 TP.Hà Nội. Về cầu – thiết kế và chỉ đạo thi công cầu dây văng Rạch Miễu và cầu Hàm Luông (Bến Tre), cầu Pá Uôn (Sơn La), Vĩnh Tuy (Hà Nội). Về cảng – đường thủy có các dự án cảng Tiên Sa, Cái Mép – Thị Vải (Đà Nẵng). Về quy hoạch đô thị có các dự án tiêu biểu như quy hoạch giao thông vận tải thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng…
Chặng đường đi tới
TEDI với mô hình hoạt động theo mô hình Công ty mẹ – con gồm Công ty mẹ và 10 công ty thành viên, 2 công ty liên kết, tổng cộng khoảng 1.600 CBCNV, là đơn vị tư vấn thiết kế CTGT lớn nhất nước hiện nay.
Vượt xa các đơn vị Tư vấn khác về số lượng nhân lực, TEDI còn là Tư vấn lâu năm nhất, có kinh nghiệm nhất trong các Tư vấn xây dựng CTGT của VN. 50 năm xây dựng và trưởng thành là một chặng đường dài với nhiều biến động của đất nước, nhiều lần thay đổi mô hình hoạt động của đơn vị, nhiều thế hệ các kĩ sư, chuyên gia, công nhân TEDI trải qua nhiều thử thách và trưởng thành.
Trên tất cả các lĩnh vực hoạt động tư vấn xây dựng CTGT: Đường bộ, Cầu-Hầm, Cảng-Đường thủy, Đường sắt, TEDI luôn đi tiên phong đảm nhận những công trình lớn nhất, phức tạp nhất của đất nước, áp dụng những tiến bộ công nghệ tiên tiến của thế giới tạo ra bước phát triển đột phá về xây dựng giao thông của VN.
TEDI trong hàng chục năm nay đã xây dựng được quan hệ hợp tác với nhiều hãng Tư vấn quốc tế có tên tuổi: PCI, Nippon Koei Nhật Bản), Louis Berger (Hoa Kì), SMEC (Australia)… Nhiều dự án lớn được thực hiện do liên danh tư vấn TEDI với các tư vấn quốc tế: Cầu Hoàng Long, hầm Hải Vân, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy…
TEDI với tình hình tài chính lành mạnh, giá trị sản lượng gia tăng đều, liên tục trong suốt quá trình hoạt động, được nghi nhận là một trong số các đơn vị của ngành GTVT làm ăn có lãi, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế với Nhà nước, các chế độ chính sách đối với người lao động và tích cực tham gia công tác xã hội, từ thiện. Tất cả những điều đó đã tạo ra một giá trị lớn cho TEDI, đó là thương hiệu TEDI.
Mô hình Công ty mẹ – Công ty con đã nghiên cứu trên sơ đồ hoạt động của 5 tập đoàn tư vấn quốc tế. Gần gũi nhất là tập đoàn Tư vấn SMEC của Australia. Công ty mẹ là nơi có các chuyên gia đầu ngành tất cả các lĩnh vực Tư vấn, có các chuyên gia đứng đầu về quản trị, về tiếp cận thị trường, các bộ phận nghiên cứu phát triển, các phòng thí nghiệm tiến hành các nghiên cứu công nghệ. Công ty mẹ TEDI với uy tín của mình vẫn là đầu mối kí kết hợp đồng, phát triển KHCN, tiếp nhận các chỉ đạo của Bộ GTVT và hợp tác quốc tế, có trách nhiệm nâng cao chất lượng dịch vụ, phát triển nguồn nhân lực, tìm kiếm thị trường, hỗ trợ cho toàn Tập đoàn.
Qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, Tổng công ty TVTK GTVT luôn được được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ GTVT và các Chủ đầu tư đánh giá cao. Mục tiêu mà TEDI xác định phải phấn đấu để đạt được là: ”Đến năm 2020, Tổng công ty TVTK GTVT trở thành một hãng tư vấn xây dựng KCHT hàng đầu tại Việt Nam, có tính chuyên nghiệp cao, quản lý và hoạt động tiếp cận thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện Việt Nam, thỏa mãn nhu cầu cung cấp dịch vụ tư vấn xây dựng trong nước, đủ khả năng để chủ động tham gia hội nhập, cạnh tranh trên thị trường trong khu vực và quốc tế”./.
Xác định KHCN tạo nên sức mạnh và đầu tư hiệu quả cho KHCN là chìa khóa thành công của đơn vị Tư vấn chuyên nghiệp, nhiều năm qua TEDI đã bền bỉ đầu tư cho KHCN, nhanh chóng học tập và làm chủ các các bí quyết công nghệ mới, áp dụng thành công KHCN trong nhiều dự án lớn, công trình giao thông trọng điểm tại Việt Nam.
Đầu tư CNTT và đào tạo cán bộ KHKT
Việc áp dụng CNTT vào công tác KSTK đã được TEDI đặc biệt quan tâm. Đến nay Tổng Công ty đã có khá đầy đủ một thư viện phần mềm phục vụ cho việc tự động hóa công tác khảo sát thiết kế như thiết kế đường ôtô, phần mềm chuyên dụng để tính các kết cấu phẳng, không gian cho các bài toán tĩnh học, động học, khí động và ổn định ở lĩnh vực thiết kế cầu, tính toán hầm, tính toán ổn định và xử lý đất yếu, phần mềm phân tích số liệu môi trường, phần mềm tính toán mô hình thủy lực… Việc ứng dụng tin học đã thực sự mang lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tổng Công ty. Công việc nối mạng trong từng Công ty và Tổng Công ty đã được thực hiện. Bởi vậy, các kênh dẫn truyền số liệu khảo sát từ hiện trường về văn phòng được thực hiện dễ dàng và thuận lợi.
Chương trình đào tạo, hội thảo, tổng kết KHCN là hoạt động được TEDI duy trì thường xuyên một cách hiệu quả. Thông qua các hội thảo, tổng kết các đề tài nghiên cứu, tổng kết các công trình ứng dụng công nghệ mới, các ý tưởng được chia sẻ, nhiều vấn đề khoa học kỹ thuật được đưa ra thảo luận một cách nghiêm túc để tổng kết những mặt đã thực hiện được, từng bước tháo gỡ những vấn đề mới phát sinh nhằm hoàn thiện hơn công nghệ khảo sát, thiết kế và thi công. Các hội thảo khoa học với các chuyên gia nước ngoài thường xuyên được tổ chức. Liên tục mở các lớp đào tạo về chuyên môn và quản lý, khuyến khích kỹ sư tự đào tạo nâng cao trình độ, đặc biệt là việc tiếp cận và làm chủ các công nghệ hiện đại.
TEDI đã cùng tham gia với các hãng tư vấn lớn trong nhiều dự án nhằm mục đích lấy công việc để học hỏi, nâng cao trình độ KHCN. TEDI đã tiếp nhận nhiều chương trình chuyển giao công nghệ từ tư vấn nước ngoài trong các dự án như: cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Bãi Cháy, hầm Hải Vân, hầm Thủ Thiêm… Việc chuyển giao công nghệ trong nhóm Công ty TEDI và các đơn vị tư vấn khác được thực hiện thường xuyên. TEDI đã thành lập Hội đồng khoa học Tổng Công ty để triển khai các công nghệ mới và giải quyết các vấn đề phức tạp tại các dự án công trình cụ thể.
Tập san Thông tin Tư vấn Thiết kế của TEDI xuất bản đều đặn nhiều năm qua cùng với Thư viện khoa học khoảng gần 10.000 đầu sách và tạp chí khoa học, kịp thời cung cấp những thông tin khoa học trong và ngoài nước phục vụ cho sản xuất và nghiên cứu của Tổng Công ty cũng như các cơ quan trong và ngoài ngành.
Trong lĩnh vực quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, TEDI đã xây dựng và áp dụng thành công hệ thống ISO-9001 quản lý theo thông lệ quốc tế, giải quyết toàn diện được khâu điều hành, quản lý chất lượng sản phẩm.
Hiệu quả lớn từ đầu tư KHCN
Trong công tác khảo sát, từ những công cụ thô sơ và bán tự động của Liên Xô cũ của những năm trước đây, đến nay TEDI đã có những thiết bị hiện đại, cùng với phòng thí nghiệm đạt chuẩn LAS có thể cung cấp các số liệu thí nghiệm theo tiêu chuẩn quốc tế.
Trong lĩnh vực thiết kế đường bộ, TEDI đã áp dụng thành công việc thiết kế tuyến đường bộ bằng ảnh hàng không, thiết kế móng mặt đường bê tông nhựa sử dụng cấp phối đá dăm liên tục theo tiêu chuẩn AASHTO. KSTK đường bộ đã được thực hiện tự động hoá với nhiều phần mềm hiện đại. Tổng công ty đã ứng dụng thành công công nghệ thiết kế xử lý nền đất yếu, thiết kế kiên cố hoá mái dốc, áp dụng công nghệ thiết kế thi công mặt đường bê tông nhựa và bê tông xi măng, bê tông tạo nhám để thiết kế các đường cấp cao, đường đô thị và đường cao tốc. TEDI là tư vấn kiến thiết hệ thống đường cao tốc Giẽ – Ninh Bình, cao tốc TP.Hồ Chí Minh – Trung Lương, cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên, lập DAĐT các đoạn tuyến cao tốc Bắc – Nam.
Thiết kế Cầu – Hầm là một mũi nhọn của TEDI với nhiều đề tài nghiên cứu thực nghiệm có kết quả qua các giai đoạn. Công nghệ thi công dầm cầu BTCTDƯL đúc hẫng cân bằng đã áp dụng thành công lần đầu tiên ở cầu Phú Lương (Hải Dương) khẩu độ nhịp 102m, sau đó đã áp dụng cho hàng loạt cầu dầm hộp liên tục khẩu độ lớn trên khắp cả nước. Đặc biệt, cầu Hàm Luông lập kỷ lục Việt Nam về khẩu độ nhịp chính 150m và cầu Pá Uôn lập kỷ lục về chiều cao trụ gần 100m đã được đưa vào khai thác.
TEDI đã thiết kế chỉ đạo thi công các cầu dây văng Đắkrông (Quảng Trị), Lê Hồng Phong (TP Phan Thiết), Rạch Miễu (nhịp chính 270m) qua sông Tiền; tính toán đối chứng và giám sát thi công cầu treo dây võng Thuận Phước (Đà Nẵng) nhịp 405m; lập dự án đầu tư xây dựng cầu Nhật Tân bắc qua sông Hồng, cầu Cao Lãnh và cầu Vàm Cống qua sông Tiền và sông Hậu; thiết kế và chỉ đạo thi công cầu vòm thép nhồi bê tông Đông Trù; thiết kế cầu vòm thép dây treo mạng lưới Mỹ Lợi (Bến Tre)…
Công nghệ xây dựng hầm phát triển từ những công trình sơ khai với sự giúp đỡ của các chuyên gia Trung Quốc trên đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn vào những năm đầu thập kỷ 60, đến nay TEDI đã làm chủ các công nghệ thiết kế và thi công hầm theo phương pháp công nghệ NATM của Áo áp dụng cho hầm Hải Vân (Liên danh), hầm Đèo Ngang (làm chủ). Công nghệ thiết kế – thi công hầm dìm xây dựng hầm Thủ Thiêm qua sông Sài Gòn đang được các kỹ sư TEDI thực hiện cùng các kỹ sư Nhật Bản trong cùng một liên danh tư vấn.
Về lĩnh vực cảng – đường thủy, nhiều đề tài nghiên cứu về diễn biến của dòng chảy và chế độ vận động của bùn cát trong điều kiện kênh chịu ảnh hưởng của thủy triều bằng cách kết hợp các phương pháp thống kê và lý thuyết kết hợp với thí nghiệm trên mô hình vật lý từ những kết quả nghiên cứu đã đề xuất được những kênh tuyến chạy tàu hợp lý. Tổng Công ty đã đi đầu trong việc áp dụng mô hình toán MIKE 21 để dự báo sóng, dòng sa bồi. Trên công trình cảng Cái Lân (liên danh tư vấn với Nhật Bản), lần đầu tiên ở Việt Nam đã áp dụng thành công phương pháp thiết kế và thi công thùng chìm khổng lồ xây dựng cảng nước sâu.